Kinh Pháp Hoa phẩm 1 tiếng việt bản chuẩn nhất giải thích nguồn gốc, ý nghĩa

Kinh pháp hoa (Saddharma – Pundarìka Sùtra) hay còn gọi là kinh diệu pháp liên hoa. Đây là kinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi kinh có cấu trúc của kinh rất phức tạp. Đặc biệt có những ý nghĩa sâu sắc có thể giúp bạn thấm nhuần tư tưởng, đạo lý của phật tử. Hãy cùng phatquang.vn tìm hiểu rõ hơn nhé.

Nguồn gốc ra đỡi của Kinh Pháp Hoa

Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Pháp Hoa bắt đầu được truyền bá từ rất sớm và được nhiều người biết đến vào khoảng 700 năm sau ngày Đức Phật nhập Niết bàn. Thiên Thai Tông lấy kinh này làm giáo pháp căn bản.  Vì trong kinh pháp hoa có chứa đựng những quan điểm chủ yếu của Đại thừa Phật giáo, đó là giáo pháp về sự chuyển hoá của Phật tính và khả năng giải thoát. Kinh này được Phật giảng vào lúc cuối đời, được kết tập trong khoảng năm 200.

kinh-phap-hoa-2

Trong cuốn tài liệu về Lịch sử Phật giáo Đại Thừa Phật Giáo tư tưởng luận của tác giả Kimura – Taiken cho rằng Kinh Pháp Hoa xuất hiện vào thế kỷ Phật giáo Đại thừa vào giai đoạn phát triển nhất. Theo như chúng ta đều biết Phật giáo Đại thừa có mặt tại Ấn Độ vào khoảng thế kỷ thứ I trước Tây lịch cho đến thế kỷ I sau Tây lịch và phát triển mạnh mẽ vào đầu thế kỷ thứ II trở đi. Như vậy, kinh Pháp Hoa xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ II. Sự phát triển của Phật giáo Đại thừa là tất yếu để đáp ứng nhu cầu tâm linh của con người.

Theo các tài liệu về lịch sử Phật giáo hiện đại như ĐẠI THỪA PHẬT GIÁO TƯ TƯỞNG LUẬN của Kimura – Taiken cũng như một số tài liệu khác thì Phật giáo Đại thừa có mặt tại Ấn Độ vào khoảng thế kỷ thứ I trước Tây lịch cho đến thế kỷ thứ I sau Tây lịch. Đại thừa phát triển mạnh mẽ vào thế kỷ thứ II trở đi. Kinh Pháp Hoa xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ II. Sự phát triển Phật giáo Đại thừa là tất yếu để đáp ứng nhu cầu tâm thức và tâm linh của thời đạiTrước Pháp Hoa, kinh điển Đại thừa đã xuất hiện khá phong phú như Bát NhãHoa NghiêmDuy Ma Cật v.v… Pháp Hoa xuất hiện như là bước tiếp nối tổng hợp tư tưởng Đại thừa của các kinh trên.

Ý nghĩa tên gọi Kinh Pháp Hoa

Không phải ngẫu nhiên mà Kinh Pháp Hoa được xếp vào hàng “Vua trong các Kinh”, bởi Kinh thuộc giáo nghĩa tối thượng thừa mà Đức Phật nói ra để đưa hàng đệ tử đến Nhất thừa đạo, chứng quả vị Phật thừa.

kinh-phap-hoa-3

Trong sách phật giáo đức phật có dạy “Nhất Phật thừa là giáo lý cao siêu, chỉ dành cho hàng căn cơ thuần thục”. Cho nên, ai viết chép, thọ trì, giảng nói được Kinh này phải biết người ấy có công đức vô lượng. Nếu không nhờ có lòng tin lớn, gieo trồng căn lành từ vô lượng kiếp thì khó mà thành tựu được. Trong Kinh Pháp Bảo Đàn có đoạn nói: Có vị thầy Pháp Đạt một hôm đến tham bái lục Tổ Huệ Năng, vị đó đỉnh lễ Tổ ba lạy mà đầu không sát đất, Tổ nói rằng:

“Lạy là để phá trừ kiêu mạn, tỏ lòng cung kính, lạy mà đầu không chấm đất chi bằng đừng lạy”. Trong tâm ngươi hẳn có điều gì chất chứa, hãy nói ra xem? Pháp Đạt thưa: Tôi niệm Kinh Pháp Hoa đã tới ba ngàn bộ. Tổ nói: “Nếu nhà ngươi niệm đến muôn bộ, hiểu được ý Kinh, nhưng chẳng cho đó là hơn người, thì cùng đi một đường với Ta. Nay nhà ngươi ỷ vào việc tụng Kinh, nên chẳng biết lỗi”.

Rồi Tổ nói kệ:

“Lễ vốn diệt kiêu mạn

Sao đầu chẳng sát đất

Chấp ngã, tội liền sinh

Quên công, phúc cao ngất”.

Pháp Đạt nghe kệ xong, hối lỗi mà tạ rằng: “Từ nay về sau, xin khiêm cung với tất cả”.

Kinh Pháp Hoa cũng dạy một hạnh khiêm cung, nhẫn nhục qua hình ảnh Bồ Tát Tường Bất Khinh, gặp ai cũng cung kính chắp tay nói: “Tôi không dám khinh Ngài, vì trước sau Ngài cũng sẽ thành Phật”. Có người nghe sinh hoan hỷ, có người mắng nhiếc, nhưng Ngài vẫn giữ một tâm niệm khiêm nhường như thế. Vì ngài biết rõ, mọi người ai cũng có Phật tính và khả năng tu hành thành Phật. Tất cả chúng sinh, hoặc trong hiện tại hay vị lai, nếu đã từng một lần được nghe Kinh Pháp Hoa nhất định sẽ thành Phật.

Hành giả muốn thụ trì Kinh Pháp Hoa phải sống trong nhà Như Lai. Tức là phải có tấm lòng từ bi với chúng sinh như mẹ thương con. Nếu thiếu tâm từ, chúng ta không thể hành trì được Pháp Hoa, Như tiền kiếp Ngài Di Lặc Bồ Tát là Cầu Danh, nhờ phát tâm Tam Muội, mang tên Từ Thị, sau được Phật thọ ký thành Phật. Do đó, người tu phải lấy từ bi làm nhà, cứu khổ ban vui cho tất cả chúng sinh khiến họ đi đến  giải thoát giác ngộ. Cũng vậy, Phật xem tất cả chúng sinh như con ruột, luôn trải tâm từ và mang lại an lạc cho chúng sinh. Chúng ta là những người con Phật, nên phải thực hành theo những gì Phật đã làm, đi trên con đường Phật đã đi mới mong thành tựu được đạo quả.

Trong phẩm Pháp Sư Công Đức có ghi: “Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào thụ trì Kinh Pháp Hoa này, hoặc đọc, tụng, giải nói, hoặc biên chép, người đó sẽ đặng tám trăm công đức nơi mắt, một ngàn hai trăm công đức nơi tai, tám trăm công đức nơi thân, một ngàn hai trăm công đức nơi ý, dùng những công đức này, trang nghiêm sáu căn đều được thanh tịnh”. Cũng trong phẩm Phẩm Pháp Sư Công Đức, Đức Phật thọ ký rằng: “Người nào đọc tụng, thụ trì Kinh Pháp Hoa là người ấy đã tự trang nghiêm mình bằng sự trang nghiêm của Đức Phật. Do đó, được Đức Như Lai mang trên vai Ngài”.

Kinh Pháp Hoa xem trọng Phật tính hay Tri Kiến Phật bình đẳng nơi mỗi chúng sinh qua câu nói: “Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tính”, nếu ai biết quay lại sống với Tri Kiến Phật nơi mình thì sẽ được diệu dụng không thể nghĩ bàn. Nên Phật dạy, chúng ta thực hành Bồ Tát đạo với tâm bình đẳng giáo hóa, không chối bỏ người nào kẻ oán cũng như người thân. Cho nên, học hỏi và tu tập Diệu Pháp là con đường quay trở về với chính mình và thực tại, nhận rõ ở đó không có mặt của ngã tướng, để từ bỏ tham ái và chấp thủ, trở về sống với Tri Kiến Phật sẵn có, với Pháp Thân không hình, không tướng, không sinh không diệt, nên công đức là không thể nghĩ bàn.

Quá trình phiên dịch và truyền bá

Kinh Pháp Hoa được dịch rất sớm và có rất nhiều bản dịch khác nhau. Chi Khiêm, người nước Ngô thời Tam Quốc (225-253 TL) đã dịch riêng phẩm Thí Dụ gọi là Phật Dĩ Tam Xa Hoán Kinh. Tiếp sau đó các nhà dịch thuật đã dịch 6 bản khác nhau :

kinh-phap-hoa

1.Pháp Hoa Tam Muội Kinh 6 quyển, ngài Cương Lương tiếp đời Tôn Lương (225 TL) dịch.

2.Tát Vân Phần Đà Lỵ Kinh 6 quyển, ngài Trúc Pháp Hộ dịch phần đầu, đời Tây Tấn (265 TL).

3.Chánh Pháp Hoa 10 quyển, cũng do ngài Pháp Hộ dịch lần cuối, đời Tây Tấn (286 TL).

4.Phương Đẳng Pháp Hoa Kinh 5 quyển, ngài Chi Đạo Căn dịch, đời Đông Tấn (335 TL).

5.Diệu Pháp Liên Hoa Kinh 7 quyển, sau đổi thành 8 quyển, ngài Cưu-ma-la-thập dịch năm 406 đời Dao Tần.

6.Thiêm phẩm Diệu Pháp Liên Hoa Kinh 7 quyển, do hai ngài Xà-la-hốt-đa (Jnànagupta) và Đạt-ma-cấp-đa (Dharmagupta) cùng dịch vào đời Tùy (601 TL).

Sáu bản dịch trên, nay chỉ còn 3 bản trong Đại Tạng là Chánh Pháp Hoa, Diệu Pháp Liên HoaThiêm phẩm Diệu Pháp Liên Hoa Kinh. Trong các bản này có sự sai khác đôi chút.

Kinh Pháp Hoa phải trải qua nhiều giai đoạn mới hoàn thành như hiện nay. Có thể chia thành 4 giai đoạn :

  • Giai đoạn 1Pháp Hoa mang tính đại chúng được viết bằng tiếng Prakrit, phần trùng tụng xuất hiện trước.
  • Giai đoạn 2: Được thêm vào phần văn xuôi để làm cho phần kệ tụng được rõ hơn (sau này ta tưởng là phần kệ tụng tóm tắt phần văn xuôi).
  • Giai đoạn 3: Phát triển thêm phần văn xuôi. Khi so sánh các bản Phạn thì các bản cổ văn xuôi ngắn hơn, các bản về sau văn xuôi lại dài hơn.
  • Giai đoạn 4: Phát triển thêm bản mới, bản Phạn cũ chỉ có 27 phẩm, sau thêm phẩm Đề Bà Đạt Đa thành 28.

Hiện nay có nhiều bản Phạn ngữ Kinh Pháp Hoa được tìm thấy từ Tây Tạng, Népal, Kotan… Đại Tạng Hán ngữ nay còn 03 bản. Bản của ngài La Thập dịch thì được ưa chuộng hơn và phổ biến hơn. Ngoài bản dịch ra Hán ngữ còn các bản dịch khác của Mông Cổ, Mãn Châu, Triều TiênNhật BảnViệt Nam rất phong phú.

Sự nghiên cứu và lưu truyền Kinh Pháp Hoa rất sâu rộng, ở Ấn Độ ngài Long Thọ (Nagarjuna) khi trứ tác Đại Trí Độ Luận đã dẫn chứng Kinh Pháp Hoa và Ngài có một tác phẩm giải thích Pháp Hoa là Pháp Hoa Thích Luận. Ngài Thế Thân, một Luận sư nổi tiếng có lược dịch và giải thích Pháp Hoa qua bộ Pháp Hoa Luận. Ở Trung Hoa, những bản chú giải, sớ giải về Pháp Hoa của các nhà nghiên cứu Phật học qua các thời đại rất nhiều, nổi bật là Trí Giả Đại sư (538) của tông Thiên Thai với các tác phẩm nổi tiếng như Pháp Hoa Huyền NghĩaPháp Hoa Văn CúMa Ha Chỉ Quán v.v…

Kinh Pháp Hoa đóng một vai trò quan trọng không những ở Ấn Độ mà còn ở Trung Hoa, Nhật Bản và các nước theo truyền thống Đại thừa. Chưa có công trình nào đánh giá hết được tác dụng của kinh đối với xã hội nhân sinh ở các nước trên đến mức nào.

Cấu trúc và nội dung Kinh Pháp Hoa :

a). Ngôn ngữ Pháp Hoa :

Kinh Pháp Hoa được trình bày dưới hình thức một vở kịch có nhiều màn, nên nó mang tính đại chúng dễ hiểu. Đó là cách truyền đạt chân lý cao siêu qua cái bình thường thông tục. Vì vậy ngôn ngữ Pháp Hoa diễn đạt mục tiêu không phải là sự kiện mà chính là sự thật chứa ở bên trong. Nói cách khác, ngôn ngữ Pháp Hoa mang tính biểu tượng.

Chân lý thì toàn diệnsiêu việt, trong khi đó, ngôn ngữ thì phiếm diện, giới hạn, cho dù sử dụng ngôn ngữ tinh xảo cách mấy cũng không chuyển tải hết sự thậtvì vậy Pháp Hoa chọn cách sử dụng ngôn ngữ biểu tượng để chuyển tải sự thật đến mức tối đa.

b). Cấu trúc kinh :

Kinh Pháp Hoa có 28 phẩm :

Kinh Pháp Hoa có 28 phẩm :

1. Phần đầu gọi là Tự, tức là phẩm mở đầu.

2. Phẩm Phương Tiện (sự khéo léo).

3. Phẩm Thí Dụ.

1. Phẩm Tín Giải (niềm tin vững chắc).

2. Phẩm Dược Thảo Dụ (thí dụ về cây thuốc).

3. Phẩm Thọ Ký (xác nhận thành Phật).

4. Phẩm Hóa Thành Dụ (thí dụ về thành phố biến hóa).

5. Phẩm Ngũ Bách Đệ Tử Thọ Ký (xác nhận cho 500 đệ tử thành Phật).

6. Phẩm Thọ Học Vô Học Nhân Ký (xác nhận cho những người cần phải học và người không cần phải học thành Phật).

7. Phẩm Pháp Sư (Thầy dạy pháp).

8. Phẩm Hiện Bảo Tháp (hóa hiện tháp báu).

9. Phẩm Đề Bà Đạt Đa.

10. Phẩm Trì (giữ gìn kinh).

11. Phẩm An Lạc Hạnh.

12. Phẩm Tùng Địa Dõng Xuất (từ đất vọt ra).

13. Phẩm Như Lai Thọ Lượng.

14. Phẩm Phân Biệt Công Đức.

15. Phẩm Tùy Hỷ Công Đức.

16. Phẩm Công Đức Pháp Sư.

17. Phẩm Thường Bất Khinh Bồ-tát.

18. Phẩm Như Lai Thần Lực.

19. Phẩm Chúc Lụy (dặn dò).

20. Phẩm Dược Vương Bồ-tát.

21. Phẩm Diệu Âm Bồ-tát.

22. Phẩm Quán Thế Âm Bồ-tát.

23. Phẩm Đà-la-ni (Dharana – mật chú).

24. Phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương Bổn Sự (chuyện về vua Diệu Trang Nghiêm).

25. Phẩm Phổ Hiền Bồ-tát Khuyến Phát (sự khuyến khích của Bồ-tát Phổ Hiền)

Các tựa đề nói lên toàn bộ hay một phần nội dung của một phẩm.

c). Nội dung :

Đề kinh tiếng Phạn là Saddharma Pundarika Sutra. Từ “Sad” ngài Pháp Hội dịch là Chánh, ngài La Thập dịch là Diệu; “Dharma” là pháp; “Pundarika” là hoa sen trắng; “Sutra” là kinh. Dịch là Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, gọi tắt là Pháp Hoa Kinh.

Diệu pháp là chân lýChân lý có chân lý tương đối và chân lý tuyệt đốiHoa sen trắng tượng trưng cho sự thanh khiếtthanh tịnh, không ô nhiễm. Vậy Diệu pháp là Thật tướng không tách khỏi cuộc đời bụi bặm. Trong cõi ô trượcchúng sanh vẫn có thể vươn lên giải thoát hoàn toàn, như hoa sen mọc ở trong bùn mà vươn lên trên bùn, không bị ô nhiễm mà còn tỏa sắc hương.

Thông thường, nội dung Kinh Pháp Hoa được giới thiệu trình bày qua hai hình thức :

a). Giới thiệu kinh qua chủ đề “Khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến” : Phẩm Tựa trình bày tổng quát hiện tượng và bản thể của vũ trụ pháp giới. Phẩm 2 đến phẩm 10 mở bày cái thấy biết của Phật. Phẩm 11 đến 22 chỉ cho thấy chỗ thâm áo của Phật tri kiến. Phẩm 23 đến 28 nói về thể nhập Phật tri kiến.

b). Giới thiệu kinh qua khái niệm về Tích môn và Bổn môn của tông Thiên ThaiKinh Pháp Hoa chia làm 2 phần : 14 phẩm đầu thuộc Tích môn, 14 phẩm sau thuộc Bổn môn.

Phần Tích môn chia làm 3 phần : Dẫn nhập, chánh tông và kết luận. Phẩm 1 là dẫn nhập, phẩm 2 đến phẩm 9 là chánh tông, phẩm 10 đến 14 là kết.

Phần Bổn môn cũng chia làm 3 phần như trên. Nửa đầu phảm 15 là phần dẫn nhập (có nơi cho rằng phẩm 1 là phần dẫn nhập cho cả 2 môn). Nửa phần sau của phẩm 15 đến phẩm 16 và nửa đầu phẩm 17 là phần chánh tông, nửa sau của phẩm 17 cho đến phẩm 28 là phần kết.

Phần Tích môn là phần giáo lý của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni có sanh ra, lớn lên, xuất giathành đạonhập diệt, dạy giáo lý thoát khổ ở cõi thế gian này. Trong kinh, phần nào thuyết pháp ở núi Linh Thứu thì thuộc về Tích môn, còn gọi là Chân lý tương đối.

Phần Bổn môn là phần gốc, là nền tảng của Tích môn. Nghĩa là Đức Phật đã thành Phật từ vô lượng kiếp. Phật hiện hữu suốt chiều dài của thời gian và phổ biến cả không gianChân lý của Bổn môn là tuyệt đối. Nhờ giáo lý Bổn môn mà lý giải tất cả chúng sanh đều thành Phật, vì tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Đây là điểm đặc thù của Pháp Hoa.

Kết luậnKinh Pháp Hoa đóng một vai trò quan trọng trong công cuộc hàn gắn sự đổ vỡ của các trường phái Phật giáo. Mặt khác đặt lại giá trị của mọi đường lối tu tập và nhất là giá trị tâm thức hướng thiện, hướng thượng của mọi chúng sanh. Sự tồn tại của Đức Phật là vĩnh cửu, mọi hiện tượng dưới con mắt người giác ngộ đều là biểu hiện chân lýÝ tưởng này đã làm nền tảng cho tư tưởng Đại thừa và con đường thực hành Bồ-tát hạnh.

Với một đường lối dung hòa, với tư tưởng pháp chân không siêu thoátKinh Pháp Hoa đã đạt được mục đích của mình là khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến. Có lẽ cũng vì vậy mà kinh được tôn thờ quý kính, hành trì và phổ biến một cách sâu rộng.

Mời các bạn đón xem Kinh Diệu Pháp Liên Hoa tập 1:

We will be happy to hear your thoughts

Leave a reply

Phật Quang
Logo
Shopping cart